Ngân hàng Phương Đông (OCB)

Niềm tin và thịnh vượng

Tag Archives: Ngân hàng

Tập trung kiểm toán 3 nội dung của gói kích cầu

Kiểm toán Nhà nước đang thực hiện kiểm toán gói kích cầu của Chính phủ trong năm 2008-2009.

TS.Vương Đình Huệ, Tổng kiểm toán Nhà nước cho biết, đây là kiểm toán chuyên đề nên phạm vi rất rộng, đòi hỏi huy động lực lượng lớn, thời gian dài đủ để có mẫu đánh giá trên cơ sở mẫu đại diện. Dự kiến, mỗi cuộc kiểm toán cần 60-90 ngày.

Tổng kiếm toán Nhà nước Vương Đình Huệ

Thưa ông, kiểm toán gói kích cầu của năm 2008-2009 có vị trí như thế nào trong kế hoạch kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước trong năm nay?

Trọng điểm của Kiểm toán Nhà nước trong năm 2010 rất chú trọng đến việc kiểm toán, đánh giá các gói kích thích của Chính phủ nhằm đối phó khủng hoảng kinh tế. Gói kích thích kinh tế của Chính phủ trị giá khoảng 8 tỷ USD đã được tung ra rất đúng lúc nên tạo ra hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên, việc triển khai các chính sách chắc chắn có khó khăn hoặc bộc lộ một số thiếu sót.

Mục tiêu của chúng tôi là phải chứng minh được về mặt định lượng trên cơ sở mẫu chọn đối với hiệu quả của từng gói kích thích kinh tế, từng biện pháp kích thích kinh tế. Mặt khác cũng đánh giá được việc các bộ ngành hướng dẫn các văn bản, chính sách có phù hợp với Nghị quyết 30 của Chính phủ hay không.

Một vấn đề cũng không kém phần quan trọng là đánh giá, kiểm tra tình hình thực thi các chính sách này, trên cơ sở đó kiến nghị với Quốc hội để rút kinh nghiệm cho việc điều hành kinh tế trong thời gian tới.

Theo hướng đó, chúng tôi tập trung 3 nội dung chủ yếu.

Thứ nhất là chuyên đề về huy động, quản lý và sử dụng trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2007-2009, trọng tâm nhất là năm 2009, năm mà chúng ta sử dụng gói kích thích kinh tế bằng trái phiếu Chính phủ. Thứ hai, tập trung kiểm toán việc thực thi chính sách hỗ trợ lãi suất, dự kiến 17.000 tỷ VND do các tổ chức tín dụng, ngân hàng trực tiếp thực hiện đối với các doanh nghiệp. Thứ ba, tập trung vào gói miễn giảm, giãn và hoàn thuế, quy mô dự kiến khoảng 28.000 tỷ VND.

Hiện các gói kích thích kinh tế đó đã hết hiệu lực nhưng vẫn có nhiều ý kiến cho rằng một phần của gói kích thích kinh tế đã được sử dụng để “đảo nợ”, vậy các cơ quan kiểm toán có công cụ gì để giám sát và và đánh giá hiệu quả?

Trong hỗ trợ lãi suất, rủi ro luôn hiện hữu. Việc sử dụng hỗ trợ lãi suất để đảo nợ hoặc thậm chí gửi ở một ngân hàng khác với lãi suất cao hơn là một rủi ro có thể xảy ra trong gói này. Ngay từ đầu, Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại đã tăng cường kiểm tra, giám sát việc vay vốn. Thông qua kiểm toán, tức là hậu kiểm, trên một quy mô mẫu kiểm toán nhất định, chúng ta không chỉ chứng minh được hiệu quả thực tế của gói kích thích kinh tế mà còn có thể phát hiện ra những “phản ứng phụ”, những bất cập hay thiếu sót trong quá trình triển khai các gói kích thích kinh tế.

Trong mục tiêu kiểm toán, chúng tôi cũng đặt ra những biện pháp đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát của hoạt động này và có những biện pháp kiểm toán phù hợp, không chỉ đối với các tổ chức ngân hàng và tín dụng, mà còn khảo sát và kiểm tra tại các đơn vị được thụ hưởng và sử dụng gói hỗ trợ lãi suất này, tức là các doanh nghiệp.

Dự kiến thời gian nào sẽ hoàn tất việc kiểm toán gói hỗ trợ lãi suất, thưa ông?

Vì đây là kiểm toán chuyên đề nên phạm vi rất rộng, đòi hỏi huy động lực lượng lớn, thời gian dài đủ để có mẫu đánh giá trên cơ sở mẫu đại diện. Dự kiến mỗi cuộc kiểm toán cần 60-90 ngày.

Tuy nhiên, đây không chỉ là một cuộc kiểm toán chuyên đề mà còn cần phải có sự phối hợp của các cơ quan kiểm toán khu vực, khi các đơn vị này kiểm toán ngân sách tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương thì cũng có nội dung này. Do đó, việc tổng hợp kết quả kiểm toán chắc phải đến quý 3 mới hoàn thành. Đối với các gói hỗ trợ lãi suất và quản lý sử dụng trái phiếu Chính phủ, dự kiến trong quý 3 sẽ tiến hành.

Ông nghĩ sao khi nhiều doanh nghiệp “kêu ca” là không chỉ phải làm việc với đoàn Kiểm toán Nhà nước mà còn phải tiếp một số đoàn thanh tra, kiểm tra thuộc bộ, ngành khác, rất mất thời gian và ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp?

Cần phải hiểu rằng, kiểm toán là hoạt động thường xuyên, nhất là chức năng xác nhận báo cáo tài chính và các quyết toán, đó chính là việc giải tỏa trách nhiệm cho người sử dụng, quản lý và điều hành ngân sách, kinh phí Nhà nước. Nếu người ta thấy được lợi ích của hoạt động kiểm toán, thì hoạt động này trở nên rất thân thiện đối với các cơ quan, tổ chức. Vì thế, hiện tượng “sợ kiểm toán” đang ngày càng giảm đi, và số lượng các yêu cầu kiểm toán ngày càng tăng lên. Số các tổ chức, đơn vị đích thân đặt hàng kiểm toán cũng rất nhiều.

Tuy nhiên, kiểm toán cũng phải có những mục tiêu, chương trình theo từng năm, căn cứ vào điều hành của Chính phủ và kế hoạch giám sát của Quốc hội, không thể thỏa mãn 100% yêu cầu của các đơn vị được.

Một vấn đề rất lớn mà chúng tôi luôn phải tính đến là sự chồng chéo và trùng lặp trong hoạt động của các cơ quan kiểm tra, kiểm toán, thanh tra và điều tra, do vậy phải tăng cường các quy chế phối hợp. Chúng tôi cũng đã có những quy chế liên tịch với các cơ quan chức năng phòng chống tham nhũng có quan hệ gần gũi và thuận lợi giữa Kiểm toán Nhà nước và Ủy ban kiểm tra Trung ương.

Do vậy, hàng năm, khi đưa ra kế hoạch kiểm toán, bao giờ chúng tôi cũng xin ý kiến của Ủy ban phòng chống tham nhũng Trung ương, Thanh tra Chính phủ, Bộ Tài chính, thanh tra của Bộ Kế hoạch Đầu tư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nhằm khắc phục một cách tốt nhất sự trùng lắp trong hoạt động kiểm tra, thanh tra.

Theo Chỉ thị 61 của Thủ tướng Chính phủ, trong một thời điểm chỉ nên có một đoàn thanh tra, kiểm tra tại một đơn vị. Mặt khác, chúng tôi cũng phải tăng cường các phương tiện trợ giúp để đảm bảo cho cuộc kiểm toán diễn ra nhanh nhất và đang từng bước thử nghiệm việc tăng cường thời lượng kiểm toán tại trụ sở cơ quan.

Nguồn: vneconomy.vn

Kinh doanh bằng niềm tin

“14 năm qua, bằng ý chí, nghị lực, niềm tin của tập thể OCB, sự đồng tình ủng hộ của khách hàng, cổ đông, cơ quan quản lý nhà nước… OCB đã vượt qua được nhiều giai đoạn khó khăn và đạt được những thành công nhất định” – ông Trần Văn Vĩnh, Tổng giám đốc OCB đã bày tỏ niềm vui trong ngày kỷ niệm 14 năm thành lập Ngân hàng (NH). Cũng nhân sự kiện này, chúng tôi có cuộc trò chuyện với ông về những trải nghiệm này.

Ông Trần Văn Vĩnh

Ông Trần Văn Vĩnh - Tổng Giám đốc Ngân hàng Phương Đông

* Sau chặng đường 14 năm phát triển, OCB được đánh giá là NH đạt được nhiều thành công. Nền tảng nào đã giúp OCB đạt được những thành tựu như ngày hôm nay, thưa ông?

– Có thể nói 14 năm qua, OCB tự hào đã vững vàng vượt qua nhiều giai đoạn khó khăn, khủng hoảng kinh tế, đảm bảo hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả và an toàn. Song cũng không thể phủ nhận thành công của OCB có được như ngày hôm nay đã phải trải qua nhiều sóng gió.

Gần đây nhất là năm 2009 – một năm đầy bất lợi cho ngành ngân hàng. Bằng chứng là khủng hoảng kinh tế thế giới và suy thoái kinh tế trong nước nhưng OCB vẫn vượt qua trong năm 2008. Trước hết, OCB có những chiến lược đúng. Ngay từ những ngày đầu thành lập, OCB đã xác định rõ mục tiêu, chiến lược, phương pháp hoạt động, và vấn đề cốt lõi để phát triển ổn định, bền vững. Từ nền tảng đó, chúng tôi tiếp tục phát huy sức mạnh tinh thần đoàn kết nội bộ, thống nhất ý chí, quyết tâm để thực hiện tốt định hướng hoạt động của OCB là NH đa năng dựa trên cốt lõi là NH bán lẻ.

* Mỗi NH đều có định hướng chiến lược cho mỗi giai đoạn phát triển. Vậy chiến lược của OCB trong giai đoạn “hậu khủng hoảng” là gì?

– Năm 2010 là năm đặc biệt quan trọng, OCB đang hoàn tất việc xây dựng chiến lược giai đoạn 2010 – 2015, và tầm nhìn đến năm 2020 trở thành tập đoàn tài chính. Bên cạnh sự hợp tác, hỗ trợ của các cổ đông sáng lập trong nước như Tổng công ty Bến Thành, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam… OCB đã ký kết hợp đồng liên minh chiến lược với đối tác nước ngoài là BNP Paribas – một trong sáu NH lớn trên thế giới. Hiện BNP Paribas đang nắm giữ 15% vốn của OCB (trong tương lai sẽ nâng tỷ lệ sở hữu lên 20%). Đây là cơ sở và cũng là lợi thế để OCB tái cấu trúc bộ máy tổ chức, quản trị rủi ro, ứng dụng công nghệ thông tin và xây dựng đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp hơn trong thời gian tới.

* Trong bối cảnh cạnh tranh của ngành NH càng gay gắt, OCB làm thế nào để tạo sự khác biệt và tăng độ tin cậy của khách hàng và cổ đông, thưa ông?

– Chúng tôi chú trọng đến đa dạng hóa sản phẩm và nâng chất lượng dịch vụ cho khách hàng, xây dựng phong cách phục vụ thân thiện, chuyên nghiệp, uy tín, xây dựng phong cách văn hóa doanh nghiệp mang dấu ấn đặc trưng OCB. OCB cụ thể hóa việc này bằng việc ban hành “Bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong hệ thống OCB”.

Nội dung quy định hành vi, phương thức và chuẩn mực ứng xử mà mỗi CB-NV phải thực hiện nhằm góp phần đưa OCB phát triển dựa trên nền tảng văn hóa kinh doanh, văn hóa NH, tạo dựng và giữ niềm tin nơi khách hàng. Thực hiện tính công khai, minh bạch trong mọi hoạt động của NH, quản trị NH một cách hiệu quả theo định hướng hội nhập phù hợp với xu thế phát triển chung của hệ thống NH trong nước và quốc tế.

Bên cạnh đó, OCB triển khai nhanh ba chương trình dự án trong liên minh chiến lược với BNP Paribas là tái cấu trúc bộ máy tổ chức, quản lý rủi ro. Đặc biệt, OCB đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động. Từ tháng 5/2010, chúng tôi đã hoàn tất việc đưa hệ thống phần mềm lõi T24 vào sử dụng trong toàn NH. Đây là phần mềm chuyên dụng về quản lý hoạt động NH được phát triển bởi Công ty Temenos của Thụy Sĩ – một công ty phần mềm hàng đầu trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng .

Hệ thống này hiện nay được sử dụng rộng rãi ở hơn 400 NH trên khắp thế giới. Với hệ thống phần mềm mới này OCB có cơ sở cung cấp các sản phẩm mới hiện đại và dịch vụ tiện ích cho khách hàng.

* OCB đã thực sự lạc quan với kết quả mà mình đạt được chưa? Ông có thể cho biết dự kiến doanh thu của cả năm ra sao?

– Nền kinh tế vẫn đang đứng trước những thách thức, theo tôi, cho dù ở giai đoạn nào, nếu thực hiện các sứ mệnh chính không hiệu quả thì khó có khả năng vượt qua khó khăn và tồn tại được. Do vậy, OCB vẫn không ngừng hoàn thiện, luôn chủ động, tích cực và không bao giờ có ý nghĩ chủ quan.

OCB ký kết với đại diện Ngân hàng BNP Paribas

OCB ký kết với đại diện Ngân hàng BNP Paribas

Kết quả 5 tháng đầu năm lợi nhuận đạt 140 tỷ đồng, Với những kết quả như vậy, tôi tin chúng tôi sẽ hoàn thành tốt các chỉ tiêu mà đại hội cổ đông đã giao: lợi nhuận tối thiểu 400 tỷ đồng, vốn điều lệ đạt tối thiểu 3.100 tỷ đồng, trong đó nâng tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần của đối tác chiến lược nước ngoài BNP Paribas từ 15% lên 20% khi được chính phủ Việt Nam cho phép; tăng dư nợ tín dụng bình quân 30%, huy động vốn tăng 40%, thu nhập cổ đông 15%, trong đó cổ tức tối thiểu đạt 10%.

* Chặng đường 14 năm không quá dài nhưng cũng không phải là ngắn, nhân dịp này OCB có để lại dấu ấn gì trong mắt khách hàng của mình hay không?

– Có chứ. Không chỉ những dịp kỷ niệm như thế này mà lúc nào chúng tôi cũng muốn tạo ra nhiều dịp hơn nữa để thay lời tri ân sự tin tưởng và ủng hộ của khách hàng dành cho OCB. Theo đó, OCB sẽ dành trên 10.000 phần quà có giá trị, tặng tất cả khách hàng đến giao dịch tại các điểm giao dịch trực thuộc hệ thống NH Phương Đông trong ngày 9 – 12/6/2010. Thời gian tới, chúng tôi sẽ triển khai hàng loạt các sản phẩm tiện ích về tiền gửi đa năng.

* Một câu hỏi bên lề, ông được biết đến là một chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế – tài chính, điều này đã mang lại những thuận lợi gì cho ông trong vai trò Tổng giám đốc NH Phương Đông?

– Bản thân tôi đã có trên 35 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, 12 năm trong nhiệm vụ Phó chủ tịch Ngân hàng HD Bank, là NH có quy mô và quá trình phát triển khá tương đồng với OCB; đồng thời, tôi cũng là Ủy viên Hội đồng Hiệp hội NH Việt Nam. Do đó, tôi tin là mình có kinh nghiệm và kiến thức để quản trị, điều hành hoạt động của OCB ngày càng tốt hơn.

* Xin cảm ơn ông.